"Trật tự Mới" (1967–1998) Suharto

Suharto xúc tiến "Trật tự Mới" của ông, tướng phản với "Trật tự Cũ" của Sukarno, một xã hội dựa trên tư tưởng Pancasila (năm nguyên tắc). Sau khi ban đầu cẩn thận để không xúc phạm tính nhạy cảm của các học giả Hồi giáo- những người lo ngại Pancasila có thể phát triển thành một phái gần như tôn giáo, Suharto đạt được một nghị quyết quốc hội vào năm 1983 mà theo đó buộc tất cả các tổ chức tại Indonesia tôn trọng triệt để Pancasila như là nguyên tắc căn bản. Ông cũng lập chương trình đào tạo Pancasila bắt buộc cho toàn bộ người Indonesia, từ học sinh tiểu học đến nhân viên văn phòng. Tuy nhiên, trên thực tế, tính chất mơ hồ của Pancasila bị chính phủ của Suharto lợi dụng để biện minh cho các hành động của họ và để kết tội các đối thủ của họ là "chống Pancasila".[51]

Củng cố quyền lực

Suharto được bổ nhiệm làm tổng thống của Indonesia trong một buổi lễ vào tháng 3 năm 1968.

Được bổ nhiệm làm tổng thống, Suharto vẫn cần phải chia sẻ quyền lực với các thành phần khác bao gồm các tướng lĩnh Indonesia vốn nhìn nhận Suharto chỉ như đồng sự hạng nhất và các tổ chức Hồi giáo và sinh viên từng tham gia thanh trừng chống cộng. Được hỗ trợ từ "Văn phòng trợ lý cá nhân" (Aspri), là phe gồm các sĩ quan quân sự trung thành với ông từ khi ông là tư lệnh của Sư đoàn Diponegoro mà đặc biệt là Ali Murtopo, Suharto bắt đầu củng cố có hệ thống quyền lực của mình bằng cách loại bỏ các đối thủ tiềm năng, trong khi trao thưởng cho những người trung thành bằng các vị trí chính trị và tiền.

Suharto đánh bại nỗ lực năm 1968 của chủ tịch Quốc hội là Tướng Nasution nhằm thông qua một dự luật cắt giảm nghiêm trọng quyền lực của tổng thống. Năm 1969, Suharto loại bỏ chức vụ chủ tịch Quốc hội của Nasution, và buộc ông ta phải về hưu non trong quân đội vào năm 1972. Năm 1967, các tướng quân Hartono Rekso Dharsono, Kemal Idris và Sarwo Edhie Wibowo (được gọi là "những người Cấp tiến Trật tự Mới") kháng nghị quyết định của Suharto về việc cho phép các chính đảng hiện hữu tham gia các cuộc bầu cử, họ ủng hộ một hệ thống hai đảng phi ý thức hệ tương tự như tại nhiều quốc gia phương Tây. Suharto sau đó phái Dharsono làm đại sứ tại hải ngoại, còn Kemal Idris và Sarwo Edhie Wibowo bị phái đi Bắc SumateraNam Sulawesi làm tư lệnh khu vực.[52]

Quan hệ vững chắc trước đó của Suharto với phong trào sinh viên trở nên căng thẳng do chế độ của ông ngày càng độc đoán và tham nhũng. Trong khi nhiều lãnh đạo ban đầu của Phong trào sinh viên 1966 (Angkatan '66) được kết nạp thành công vào chế độ, Suharto phải đối diện với các cuộc tuần hành lớn của sinh viên nhằm thách thức tính hợp pháp của cuộc bầu cử 1971 (phong trào "Golput"), xây dựng công viên Taman Mini Indonesia Indah tốn kém (1972), sức chi phối của các nhà tư bản ngoại quốc (Sự kiện Malari năm 1974), và thiếu các hạn chế nhiệm kỳ tổng thống của Suharto (1978). Chế độ phản ứng bằng cách tống giam nhiều nhà hoạt động sinh viên và thậm chí phái các đơn vị lục quân đi chiếm giữ các khu trường sở đại học của ITB (Học viện Kỹ thuật Bandung) từ tháng 1-3 năm 1978. Trong tháng 4 năm 1978, Suharto hành động quyết định khi ban sắc lệnh về "Bình thường hóa sinh hoạt khu trường sở" (NKK) theo đó cấm chỉ các hoạt động chính trị trong khuôn viên trường học không liên quan đến học thuật.[53][54]

Ngày 15–16 tháng 1 năm 1974, Suharto phải đối diện với một thách thức đáng kể khi náo động bạo lực bùng phát tại Jakarta trong chuyến công du của Thủ tướng Nhật Bản Kakuei Tanaka. Sinh viên tuần hành chống lại sự chi phối ngày càng tăng của các nhà đầu tư Nhật Bản, hoạt động này được phó tư lệnh quân đội là Tướng Sumitro khuyến khích. Sumitro là một tướng quân có nhiều tham vọng, ông không thích ảnh hưởng mạnh của nội bộ Aspri của Suharto. Suharto được báo cáo rằng náo động do Sumitro sắp đặt, ông ta có mong muốn làm mất ổn định chế độ bằng cách lợi dụng náo động của sinh viên, kết quả là Sumitro bị bãi nhiệm và buộc phải về hưu. Sự kiện này được gọi là Sự kiện Malari (Malapetaka Lima Belas Januari / Thảm họa 15 tháng 1). Tuy nhiên, Suharto cũng giải tán Aspri nhằm làm dịu bất mãn phổ biến.[55]

Năm 1980, 50 nhân vật chính trị nổi bật ký kết Kiến nghị Năm mươi, trong đó chỉ trích Suharto sử dụng Pancasila để bịt miệng những người chỉ trích ông. Suharto từ chối giải quyết các quan tâm của những người kiến nghị, và một số trong đó bị tống giam còn những người khác bị áp đặt hạn chế đối với hoạt động của họ.[56]

Chính trị và an ninh nội địa

Để xoa dịu các yêu cầu từ các chính trị gia dân sự trong việc tổ chức bầu cử, như được biểu thị trong các nghị quyết của Quốc hội vào năm 1966 và 1967, chính phủ Suharto đưa ra một loạt các luật về bầu cử cũng như cấu trúc và bổn phận của quốc hội, chúng được quốc hội thông qua vào tháng 11 năm 1969 sau các đàm phán kéo dài. Luật quy định một quốc hội (Madjelis Permusjawaratan Rakjat/MPR) với quyền bầu cử tổng thống, gồm một hạ viện (Dewan Perwakilan Rakjat/DPR) và các đại biểu khu vực. 100 trong số 460 thành viên của DPR sẽ được chính phủ bổ nhiệm trực tiếp, các ghế còn lại được phân bổ cho các chính đảng dựa trên kết quả tổng tuyển cử. Cơ chế này đảm bảo quyền kiểm soát đáng kể của chính phủ dối với các sự vụ tư pháp, đặc biệt là bổ nhiệm tổng thống.[57][58]

Để tham gia bầu cử, Suharto nhận thấy sự cần thiết phải liên kết bản thân với một chính đảng. Sau khi ban đầu cân nhắc liên kết với đảng cũ của Sukarno là Đảng Dân tộc Indonesia (PNI), đến năm 1969 Suharto quyết định tiếp quản quyền kiểm soát đối với liên hiệp các tổ chức phi chính phủ ít tiếng tăm do quân đội vận hành gọi là Golkar và chuyển đổi nó thành một phương tiện bầu cử của mình với sự phối hợp của cánh tay phải là Ali Murtopo. Tổng tuyển cử đầu tiên được tổ chức vào ngày 3 tháng 7 năm 1971 với mười đảng phái tham gia; gồm Golkar, bốn chính đảng Hồi giáo, cùng năm đảng dân tộc chủ nghĩa và Cơ Đốc giáo. Vận động trên một nền tảng phi ý thức hệ về "phát triển", được hỗ trợ từ sự ủng hộ của chính phủ và chiến thuật hăm dọa tinh vi, Golkar giành được 62,8% phiếu phổ thông. Phiên họp toàn thể tháng 3 năm 1973 của Quốc hội mới được bầu nhanh chóng bổ nhiệm Suharto làm tổng thống, và Sultan Hamengkubuwono IX là phó tổng thống.[59]

Ngày 5 tháng 1 năm 1973, để kiểm soát tốt hơn, chính phủ buộc bốn đảng phái Hồi giáo sáp nhập thành Đảng Phát triển Liên hiệp (Partai Persatuan Pembangunan, PPP) trong khi năm đảng phái phi Hồi giáo được hợp nhất vào Đảng Dân chủ Indonesia (Partai Demokrasi Indonesia, PDI). Chính phủ đảm bảo rằng các đảng phái không bao giờ phát triển thành đảng đối lập hữu hiệu bằng cách kiểm soát tầng lớp lãnh đạo của chúng, trong khi thiết lập hệ thống "bãi miễn" để loại bỏ vị trí của bất kỳ nhà lập pháp nào lên tiếng. Sử dụng hệ thống "Dân chủ Pancasila", Suharto tái đắc cử mà không gặp chống đối tại Quốc hội vào năm 1978, 1983, 1988, 1993, và 1998.[60] Golkar giành chiến thắng với đa số lớn trong mọi cuộc bầu cử Quốc hội, đảm bảo rằng Suharto có thể thống qua chương trình nghị sự của mình mà hầu như không bị phản đối.

Suharto tiến hành các dự án công trình xã hội khác nhau nhằm chuyển biến xã hội Indonesia thành một "quần chúng nổi" phi chính trị hóa hỗ trợ nhiệm vụ quốc gia về "phát triển", một khái niệm tương tự như chủ nghĩa nghiệp đoàn. Chính phủ thành lập nhiều nhóm xã hội dân sự để đoàn kết dân cư ủng hộ các chương trình của chính phủ. Từ năm 1966 đến năm 1967, nhằm xúc tiến đồng hóa người Indonesia gốc Hoa vốn có uy thế, chính phủ Suharto thông qua một số luật trong cái gọi là "Chính sách cơ bản về giải quyết vấn đề người Hoa", do đó chỉ có một xuất bản phẩm tiếng Hoa (quân đội kiểm soát) được phép tiếp tục, toàn bộ các biểu hiện của văn hóa và tôn giáo Trung Hoa bị cấm khỏi không gian công cộng, các trường học Trung văn bị đóng cửa dần, và người Hoa được khuyến khích lấy tên giống tiếng Indonesia. Năm 1968, Suharto mở đầu một chương trình kế hoạch hóa gia đình rất thành công để giảm tốc độ tăng tưởng dân số và do đó làm tăng thu nhập đầu người. Một di sản lâu dài của giai đoạn này là cải cách chính tả tiếng Indonesia theo sắc lệnh vào ngày 17 tháng 8 năm 1972.[61]

Suharto dựa vào quân đội để duy trì an ninh nội địa, thông qua Kopkamtib và BAKIN. Để duy trì kiểm soát nghiêm ngặt trên toàn quốc, Suharto mở rộng hệ thống lãnh thổ của lục quân xuống cấp làng, trong khi các sĩ quan quân đội được bổ nhiệm làm những người đứng đầu khu vực. Đến năm 1969, 70% các thống đốc cấp tỉnh của Indonesia và trên một nửa các huyện trưởng là các sĩ quan quân đội tại ngũ. Suharto ủy quyền Operasi Trisula nhằm tiêu diệt tàn dư của Đảng Cộng sản Indonesia đang nỗ lực thiết lập một căn cứ du kích trong khu vực Blitar vào năm 1968, và ra lệnh tiến hành một số chiến dịch quân sự với kết quả là kết thúc nổi dậy cộng sản PGRS-Paraku tại Tây Kalimantan (1967–1972). Các cuộc tấn công nhằm vào công nhân dầu hỏa bởi hiện thân đầu tiên của Phong trào Aceh Tự do ly khai dưới quyền Hasan di Tiro vào năm 1977 khiến Suharto phái các phân đội lực lượng đặc biệt có quy mô nhỏ đi trấn áp và họ nhanh chóng tiêu diệt hoặc buộc các thành viên của phong trào phải tẩu thoát ra ngoại quốc.[62] Đáng chú ý, trong tháng 3 năm 1981, Suharto ủy quyền một phái đoàn lực lượng đặc biệt giải quyết thành công sự kiện những phần tử Hồi giáo cực đoan không tặc một máy bay của Garuda Indonesia tại Sân bay Don Muang tại Bangkok.[63]

Tuân theo Hiệp định New York năm 1962 vốn yêu cầu trưng cầu dân ý về việc hợp nhất Tây Irian vào Indonesia trước cuối năm 1969, chính phủ Suharto bắt đầu tổ chức cái gọi là kế hoạch "Hành động lựa chọn tự do" trong tháng 7-8 năm 1969. Chính phủ phái lực lượng đặc biệt RPKAD dưới quyền Sarwo Edhie Wibowo đến New Guinea, trong khi phái tình nguyện viên Công giáo dưới quyền Jusuf Wanandi đi phân bổ các hàng tiêu dùng nhằm xúc tiến tình cảm ủng hộ Indonesia. Trong tháng 3 năm 1969, đạt được thỏa thuận rằng trưng cầu dân ý sẽ được chuyển qua 1.025 tù trưởng bộ lạc, viện dẫn thách thức về hậu cần và vô minh chính trị của dân cư. Sử dụng chiến lược trên, trưng cầu dân ý có kết quả là một quyết định nhất trí về việc hợp nhất với Indonesia, được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ghi nhận hợp lệ vào tháng 11 năm 1969.[64]

Kinh tế

Suharto trong một chuyến công du đến Tây Đức vào năm 1970.

Để ổn định kinh tế và để đảm bảo ủng hộ lâu dài đối với Trật tự Mới, chính quyền của Suharto tuyển dụng một nhóm gồm các nhà kinh tế học Indonesia hầu hết được đào tạo tại Hoa Kỳ, gọi là "Berkeley Mafia", để kiến thiết các thay đổi quan trọng trong chính sách kinh tế. Bằng cách cắt giảm trợ cấp, giảm nợ chính phủ, và cải cách cơ chế tỷ giá hối đoái, tốc độ lạm phát giảm từ 660% vào năm 1966 đến 19% vào năm 1969. Mối đe dọa từ nạn đói được giảm bớt nhờ dòng tàu cứu trợ gạo của USAID từ năm 1967 đến năm 1968.[65]

Do thiếu tư bản nội địa cho tăng trưởng kinh tế, Trật tự Mới đảo nghịch các chính sách tự túc kinh tế của Sukarno và mở cửa các lĩnh vực kinh tế được lựa chọn trong nước cho đầu tư nước ngoài thông qua Luật Đầu tư nước ngoài 1967. Suharto đến Tây Âu và Nhật Bản để xúc tiến đầu tư vào Indonesia. Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tiên lại tiến vào Indonesia bao gồm các Công ty Sulphur Freeport và Công ty Nickel Quốc tế. Sau các khuôn khổ pháp quy của chính phủ, các doanh nhân nội địa (chủ yếu là người gốc Hoa) nổi lên vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ thay thế nhập khẩu như Tập đoàn Astra và Tập đoàn Salim.[66]

Từ năm 1967, chính phủ nhận được viện trợ nước ngoài lãi suất thấp từ mười quốc gia Nhóm Liên chính phủ về Indonesia (IGGI) để bù đắp thâm hụt ngân sách.[67] Với tiền từ IGGI và sau đó là từ thu nhập xuất khẩu dầu hỏa kể từ Khủng hoảng dầu mỏ 1973, chính phủ đầu tư vào cơ sở hạ tầng theo các kế hoạch 5 năm, được gọi là REPELITA I đến VI từ năm 1969 đến năm 1998.[6][66][68]

Ngoài kinh tế chính thức, Suharto thiết lập một mạng lưới các tổ chức từ thiện ("yayasan") do quân đội và các thành viên trong gia đình ông điều hành, các tổ chức này bòn rút "đóng góp" từ các doanh nghiệp nội địa và ngoại quốc để đổi lấy sự ủng hộ và giấy phép của chính phủ. Trong khi một số thu nhập được sử dụng cho các mục đích từ thiện, thì nhiều khoản tiền được tái sinh thành các khoản quỹ đen để thưởng cho các đồng minh chính trị và để duy trì ủng hộ đối với Trật tự Mới.[6][69]

Năm 1975, công ty dầu hỏa quốc doanh Pertamina bị vỡ nợ nước ngoài do quản lý yếu kém và tham nhũng dưới quyền đồng minh thân thiết của Suharto là Ibnu Sutowo. Chính phủ cứu trợ cho công ty, khiến nơi quốc gia gần tăng gấp đôi.[70]

Chính sách đối ngoại

Tập tin:SuhartoNAMLusaka1970.jpgSuharto tham dự kỳ họp năm 1970 của Phong trào Không liên kết tại Lusaka.

Vào lúc đoạt quyền, chính phủ Suharto thực hiện chính sách trung lập trong Chiến tranh Lạnh, song lặng lẽ liên kết với khối Phương Tây (gồm cả Nhật Bản và Hàn Quốc) với mục tiêu đảm bảo ủng hộ để Indonesia khôi phục kinh tế. Các quốc gia phương Tây ấn tượng trước sự chống cộng mạnh mẽ của Suharto, họ nhanh chóng đề xuất hỗ trợ. Quan hệ ngoại giao với Trung Quốc bị đình chỉ trong tháng 10 năm 1967 do nghi ngờ Trung Quốc tham dự trong Phong trào 30 tháng 9 (quan hệ ngoại giao được khôi phục vào năm 1990). Do Suharto tiêu diệt Đảng Cộng sản Indonesia, Liên Xô cấm vận bán vũ khí cho Indonesia. Tuy nhiên, từ năm 1967 đến năm 1970 Ngoại trưởng Adam Malik nỗ lực nhằm đảo bảo một số thỏa thuận tái cơ cấu khoản nợ khổng lồ mà Sukarno vay của Liên Xô và các quốc gia cộng sản Đông Âu khác. Trong khu vực, sau khi kết thúc đối đầu với Malaysia trong tháng 8 năm 1966, Indonesia trở thành một thành viên sáng lập của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong tháng 8 năm 1967. Tổ chức này có mục đích thiết lập quan hệ hòa bình giữa các quốc gia Đông Nam Á để thoát khỏi các xung đột như Chiến tranh Việt Nam đang diễn ra.[6]

Năm 1974, thuộc địa Timor thuộc Bồ Đào Nha chìm vào nội chiến sau khi nhà cầm quyền Bồ Đào Nha triệt thoái sau Cách mạng Hoa cẩm chướng tại mẫu quốc. Được các quốc gia phương Tây tán thành, Suharto quyết định can thiệp để ngăn chặn việc thiết lập một quốc gia cộng sản. Sau một nỗ lực bất thành nhằm bí mật ủng hộ các tổ chức Timor UDT và APODETI, Suharto cho phép xâm chiếm toàn diện thuộc địa vào ngày 7 tháng 12 năm 1975, tiếp theo là chính thức sáp nhập lãnh thổ này thành tỉnh Đông Timor vào tháng 7 năm 1976. Các chiến dịch "bao vây và tiêu diệt" năm 1977–1979 phá vỡ sự kiểm soát trở lại của phe Fretilin đối với các khu vực nội địa, song kháng cự du kích tiếp tục cho đến năm 1999. Một ước tính cho biết tối thiểu 90.800 và tối đa 213.600 người thiệt mạng liên quan đến xung đột diễn ra tại Đông Timor trong thời kỳ Indonesia cai trị (1974–1999); cụ thể là 17.600–19.600 người bị sát hại và 73.200-194.000 thiệt mạng do đói và ốm, song lực lượng Indonesia chịu trách nhiệm cho khoảng 70% số vụ sát hại trong xung đột.[71]

Phát triển kinh tế-xã hội và tham nhũng gia tăng

Phát triển kinh tế-xã hội thực sự được duy trì liên tục, hỗ trợ cho chế độ của Suharto trong suốt ba thập niên. Đến năm 1996, tỷ lệ nghèo của Indonesia giảm xuống khoảng 11% so với 45% vào năm 1970. Từ năm 1966 đến 1997, Indonesia đạt tăng trưởng GDP thực tế là 5,03%/năm. Năm 1966, lĩnh vực chế tạo đóng góp dưới 10% GDP (hầu hết là các ngành công nghiệp liên quan đến dầu hỏa và nông nghiệp). Đến năm 1997, lĩnh vực chế tạo tăng lên 25% GDP với 53% xuất khẩu bao gồm các sản phẩm chế tạo. Chính phủ đầu tư vào phát triển hạ tầng lớn, do đó cơ sở hạ tầng của Indonesia vào giữa thập niên 1990 được cho là tương đương với Trung Quốc. Suharto lợi dụng những thành tựu như vậy để biện hộ cho chế độ của mình, và một nghị quyết của quốc hội vào năm 1983 trao cho ông danh hiệu "Cha của phát triển".[72]

Các chương trình chăm sóc y tế của chính phủ Suharto làm tăng tuổi thọ bình quân từ 47 năm (1966) lên 67 năm (1997) trong khi giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh trên 60%. Chương trình Inpres của chính phủ được phát động vào năm 1973 có kết quả là tỷ lệ nhập học bậc tiểu học đạt 90% vào năm 1983 trong khi hầu như loại bỏ khoảng cách giáo dục giữa trẻ trai và trẻ gái. Hỗ trợ liên tục cho nông nghiệp có kết quả là Indonesia tự cung cấp được gạo vào năm 1984, đây là một thành tích chưa từng có và khiến Suharto được FAO trao một huy chương vàng vào tháng 11 năm 1985.[73]

Đầu thập niên 1980, trước sự suy giảm xuất khẩu dầu hỏa do sự kiện sản xuất dầu dư thừa trên toàn cầu thập niên 1980, chính phủ Suharto phản ứng bằng cách chuyển đổi thành công trụ cột kinh tế vào ngành chế tạo thâm dụng lao động định hướng xuất khẩu, tiến hành cạnh tranh toàn cầu dựa vào mức lương thấp và một loạt đợt phá giá tiền tệ. Công nghiệp hóa hầu hết do các công ty của người Hoa tiến hành, họ phát triển thành các tập đoàn khổng lồ chi phối kinh tế quốc gia. Các tập đoàn lớn nhất là Tập đoàn Salim dưới quyền Lâm Thiệu Lương (Sudono Salim), Tập đoàn Sinar Mas dưới quyền Hoàng Diệc Thông (Eka Tjipta Widjaja), Tập đoàn Astra dưới quyền Tạ Kiến Long (William Soeryadjaya), Tập đoàn Lippo dưới quyền Lý Văn Chính (Mochtar Riady), Tập đoàn Barito Pacific dưới quyền Bành Vân Bằng (Prajogo Pangestu), và Tập đoàn Nusamba dưới quyền Trịnh Kiến Thịnh (Bob Hasan). Suharto quyết định hỗ trợ sự phát triển của số lượng nhỏ các tập đoàn của người Hoa, lý do là vì họ không thể đặt ra thách thức chính trị vì có thân phận dân tộc thiểu số. Từ trải nghiệm trước đây của mình, ông cho rằng họ có các kỹ năng và tư bản cần thiết để tạo tăng trưởng thực tế cho quốc gia. Đổi lấy sự bảo trợ của Suharto, các tập đoàn cung cấp tài chính sống còn cho các hoạt động "duy trì chế độ" của ông.[74]

Đến cuối thập niên 1980, chính phủ Suharto quyết định bãi bỏ quy định trong lĩnh vực ngân hàng nhằm khuyến khích tiết kiệm và cung cấp nguồn tài chính nội bộ cần thiết cho tăng trưởng. Suharto ra sắc lệnh PAKTO 88, theo đó nới lỏng các yêu cầu cho việc thành lập các ngân hàng và mở rộng tín dụng; kết quả là số lượng ngân hàng tăng 50% từ 1989–1991. Để khuyến khích tiết kiệm, chính phủ thi hành chương trình TABANAS đối với dân chúng. Thị trường chứng khoán Jakarta được tái khai trương vào năm 1977, và bị đầu cơ lên giá do bạo tay trong IPO nội địa và dòng vốn nước ngoài sau khi được bãi bỏ quy định vào năm 1990. Tính khả dụng đột ngột của tín dụng thúc đẩy phát triển kinh tế mạnh mẽ vào đầu thập niên 1990, song môi trường pháp quy yếu kém của lĩnh vực tài chính đã gieo những hạt giống cho khủng hoảng nghiêm trọng vào năm 1997, cuối cùng tàn phá chế độ của Suharto.[75]

Tăng trưởng kinh tế diễn ra đồng thời với phát triển nhanh chóng về tham nhũng, thông đồng, và gia đình trị (Korupsi, Kolusi, dan Nepotisme / KKN). Đầu thập niên 1980, các con của Suharto mà đặc biệt là Siti Hardiyanti Rukmana ("Tutut"), Hutomo Mandala Putra ("Tommy"), và Bambang Trihatmodjo, trở thành những người tham lam. Các công ty của họ được trao cho các hợp đồng chính phủ sinh lợi và được bảo hộ trước cạnh tranh thị trường nhờ độc quyền. Gia đình Suharto được cho là kiểm soát khoảng 36.000 km² bất động sản tại Indonesia, bao gồm 100.000 m² không gian văn phòng hàng đầu tại Jakarta và gần 40% đất tại Đông Timor. Ngoài ra, các thành viên trong gia đình Suharto nhận được cổ phần miễn phí trong 1.251 công ty nội địa sinh lợi nhất của Indonesia (hầu hết do các bạn chí thân người Hoa của Suharto), trong khi các công ty thuộc sở hữu ngoại quốc được khuyến khích thiết lập "quan hệ đối tác chiến lược" với các công ty của gia đình Suharto. Trong khi đó, vô số yayasan do gia đình Suharto điều hành phát triển ngày một lớn, thu hàng triệu dollar "đóng góp" từ các khu vực công và tư mỗi năm.[9][76]

Trật tự Mới trong thập niên 1980 và 1990

Suharto cùng Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ William Cohen, 14 tháng 1 năm 1998.

Đến thập niên 1980, quyền lực của Suharto được duy trì nhờ sự nhu nhược của xã hội dân sự, các cuộc bầu cử được sắp dặt, và sử dụng quyền lực cưỡng chế của quân đội. Sau khi rút khỏi quân đội vào tháng 6 năm 1976, Suharto tiến hành tái tổ chức lực lượng vũ trang, tập trung quyền lực về tổng thống thay vì các tư lệnh. Trong tháng 3 năm 1983, ông bổ nhiệm Tướng Leonardus Benjamin Moerdani làm người đứng đầu lực lượng vũ trang, ông ta thi hành một đường lối cứng rắn với các phần tử thách thức chính phủ. Do là một tín đồ Công giáo La Mã, ông ta không phải là một mối đe dọa chính trị đối với Suharto.[77]

Từ năm 1983 đến năm 1985, các đơn vị quân đội hạ sát đến 10.000 người bị nghi ngờ có tội nhằm phản ứng trước việc tỷ lệ tội phạm tăng đột biến. Việc Suharto áp đặt Pancasila là tư tưởng duy nhất gây kháng nghị từ các tổ chức Hồi giáo bảo thủ, họ nhìn nhận luật Hồi giáo ở trên tất cả các nhận thức khác. Tàn sát Tanjung Priok phát sinh khi quân đội sát hại 100 người Hồi giáo bảo thủ kháng nghị vào tháng 9 năm 1984. Một loạt các vụ đánh bom nhỏ để trả thù, bao gồm cả đánh bom Borobudur, dẫn đến bắt giữ hàng trăm nhà hoạt động Hồi giáo bảo thủ. Các vụ tấn công cảnh sát của một Phong trào Aceh Tự do được tái sinh vào năm 1989 dẫn đến một hoạt động quân sự sát hại 2.000 người và kết thúc nổi loạn vào năm 1992. Năm 1984, chính phủ Suharto tìm cách gia tăng kiểm soát đối với truyền thông khi đưa ra một đạo luật yêu cầu tất cả phương tiện truyền thông phải có một giấy phép hoạt động báo chí (SIUPP), giấy phép này có thể bị Bộ Thông tin thu hồi bất kỳ lúc nào.[78]

Chiến tranh Lạnh kết thúc khiến phương Tây giảm quan tâm đến cộng sản, và hồ sơ nhân quyền của Suharto được quốc tế chú ý lớn hơn, đặc biệt là sau Tàn sát Santa Cruz 1991 tại Đông Timor. Suharto được bầu làm chủ tịch của Phong trào Không liên kết vào năm 1992, trong khi Indonesia trở thành một thành viên sáng lập của APEC vào năm 1989 và tổ chức Hội nghị thượng đỉnh APEC tại Bogor vào năm 1994.[79]

Trên phương diện đối nội, quan hệ kinh doanh của gia đình Suharto tạo ra bất mãn trong quân đội, nguyên nhân là vì quân đội mất khả năng tiếp cận với quyền lực và các cơ hội trục lợi. Trong kỳ họp quốc hội vào tháng 3 năm 1988, các nhà lập pháp từ quân đội nỗ lực gây áp lực với Suharto bằng cách cố gắng bất thành nhằm ngăn việc bổ nhiệm Sudharmono- một người trung thành với Suharto- làm phó tổng thống. Lời chỉ trích của Moerdani đối với tham nhũng của gia đình Suharto khiến Tổng thống bãi chức tư lệnh quân đội của ông ta. Suharto thi hành một quá trình "phi quân sự hóa" dần dần chế độ của mình; ông giải tán Kopkamtib đầy quyền lực vào tháng 9 năm 1988 và đảm bảo các vị trí chủ chốt trong quân đội do những người trung thành với ông nắm giữ.[80]

Suharto và phu nhân trong trang phục Hồi giáo vào năm 1991

Trong một nỗ lực nhằm đa dạng hóa căn cứ quyền lực khỏi quân đội, Suharto bắt đầu tranh thủ ủng hộ từ các thành phần Hồi giáo. Ông tiến hành một cuộc hành hương hajj rùm beng vào năm 1991, lấy tên Haji Mohammad Suharto, và xúc tiến các giá trị Hồi giáo và sự nghiệp của các tướng lĩnh có khuynh hướng Hồi giáo. Để giành ủng hộ từ các cộng đồng kinh doanh Hồi giáo mới phát sinh, những người vốn phẫn uất trước sự chi phối của các tập đoàn người Hoa, Suharto thành lập Hiệp hội Tri thức Hồi giáo Indonesia vào tháng 11 năm 1990, do người của ông là BJ Habibie lãnh đạo. Trong giai đoạn này, náo loạn chủng tộc chống người Hoa bắt đầu xuất hiện khá thường xuyên, bắt đầu với náo loạn tháng 4 năm 1994 tại Medan.[81]

Tầng lớp trung lưu của Indonesia phát sinh nhờ phát triển kinh tế của Suharto, đến thập niên 1990, các phần tử trong tầng lớp này trở lên bất an trước chế độ chuyên quyền và tham nhũng của các con ông, thúc đẩy tính cần thiết phải cải cách chính phủ Trật tự Mới kéo dài đã gần 30 năm. Đến năm 1996, con gái của Sukarno là Megawati Sukarnoputri, đồng thời là chủ tịch của Đảng Dân chủ vốn thường phục tùng, trở thành một điểm tập hợp cho bất mãn đang phát triển này. Nhằm đối phó, Suharto hỗ trợ phái trong đảng này dưới quyền Suryadi, nhân vật này loại bỏ Megawati khỏi ghế chủ tịch. Ngày 27 tháng 7 năm 1996, một cuộc tấn công do các binh sĩ và du côn được thuê tiến hành dưới quyền Trung tướng Sutiyoso nhằm vào những người ủng hộ Megawati đang tuần hành tại Jakarta dẫn đến bạo loạn chết người và cướp bóc. Tiếp sau sự kiện này là việc bắt giữ 200 nhà hoạt động dân chủ, và một số người bị sát hại, bởi các đơn vị quân đội dưới quyền con rể của Suharto là Thiếu tướng Prabowo Subianto.[82]

Khủng hoảng kinh tế và từ nhiệm

Suharto đọc diễn văn từ nhiệm của mình tại Cung điện Merdeka vào ngày 21 tháng 5 năm 1998.

Indonesia là quốc gia chịu tác động mạnh nhất từ Khủng hoảng tài chính châu Á 1997–98. Từ giữa năm 1997, có lượng lớn tư bản chảy ra bên ngoài và so với dollar Mỹ thì Rupiah Indonesia giảm từ mức tiền khủng hoảng là 2.600 xuống một điểm thấp vào đầu năm 1998 là khoảng 17.000. Nhiều công ty bị phá sản và kinh tế giảm 13,7% dẫn đến tăng mạnh thất nghiệp và bần cùng trên toàn quốc.[83]

Trong tháng 12 năm 1997, Suharto lần đầu tiên không tham dự cuộc họp thượng đỉnh của ASEAN, về sau nguyên nhân được tiết lộ là ông bị đột quỵ nhỏ, điều này tạo ra đồn đoán về sức khỏe của ông và tương lai chức tổng thống của ông. Đến giữa tháng 12, khi khủng hoảng quét qua toàn Indonesia và ước tính 150 tỷ tư bản rút khỏi nước này, Suharto xuất hiện trong một buổi họp báo để tái khẳng định quyền lực của mình và để thuyết phục nhân dân tin tưởng chính phủ và đồng Rupiah đang sụt giá.[84] Tuy nhiên, các nỗ lực của ông nhằm tái gây dựng lòng tin có ít tác động. Bằng chứng cho thấy rằng gia đình và cộng sự của ông được miễn các yêu cầu khó khăn nhất của quá trình cải cách IMF, điều này càng làm xói mòn lòng tin vào kinh tế và cương vị lãnh đạo của ông.[85]

Khủng hoảng kinh tế đi kèm với gia tăng căng thẳng chính trị. Các cuộc náo loạn chống người Hoa phát sinh tại Situbondo (1996), Tasikmalaya (1996), Banjarmasin (1997), và Makassar (1997); trong khi xung đột dân tộc bạo lực phát sinh giữa người Dayak bản địa và người Madura định cư tại Trung Kalimantan vào năm 1997. Golkar giành thắng lợi nhờ gian lận trong bầu cử quốc hội năm 1997 và đến tháng 3 năm 1998, Suharto được nhất trí bầu tiếp tục đảm nhiệm một nhiệm kỳ 5 năm nữa. Ông bổ nhiệm đồng sự BJ Habibie làm phó tổng thống trong khi đưa gia đình và đối tác kinh doanh của mình vào nội các. Những vụ bổ nhiệm này cùng ngân sách phi thực tế 1998 của chính phủ tạo thêm các bất ổn tiền tệ,[86] và các tin đồn và hoảng sợ khiến nhân dân đổ xô đến các cửa hàng và đẩy giá cả lên.[87]

Suharto ngày càng bị cho là nguồn gốc của các khủng hoảng kinh tế và chính trị đang tăng lên trong nước, các nhân vật chính trị nổi bật, trong đó có chính trị gia Hồi giáo Amien Rais, lên tiếng chống cương vị tổng thống của ông, và đến tháng 1 năm 1998 các sinh viên đại học bắt đầu tổ chức các cuộc tuần hành trên toàn quốc.[88] Khủng hoảng đạt đỉnh trong tháng 5 năm 1998 khi lực lượng an ninh sát hại bốn người tuần hành từ Đại học Trisakti ở Jakarta. Náo loạn và cướp bóc khắp Jakarta và các thành phố khác trong những ngày sau đó khiến hàng nghìn tòa nhà bị phá hủy và trên 1.000 người bị sát hại. Người Hoa và các cơ sở kinh doanh của họ là các mục tiêu cụ thể trong bạo lực. Các thuyết về nguồn gốc của bạo lực gồm có kình địch giữa Tướng WirantoPrabowo, và đề xuất rằng Suharto cố ý kích động để đổ trách nhiệm về khủng hoảng cho người Hoa và làm mất uy tín phong trào sinh viên.[89]

Ngày 16 tháng 5, hàng nghìn sinh viên yêu cầu Suharto từ nhiệm, họ chiếm khuôn viên và mái của tòa nhà quốc hội. Khi Suharto trở về Jakarta, ông đề nghị từ chức vào năm 2003 và cải tổ nội các. Các nỗ lực này thất bại khi các đồng minh chính trị của ông bỏ rơi ông để tham gia tân nội các được trù định. Theo Wiranto, vào ngày 18 tháng 5, Suharto ban một sắc lệnh mà theo đó cấp thẩm quyền cho ông ta tiến hành biện pháp bất kỳ để khôi phục an ninh; tuy nhiên Wiranto quyết định không thi hành sắc lệnh để ngăn xung đột với dân chúng.[90] Ngày 21 tháng 5 năm 1998, Suharto tuyên bố từ nhiệm, phó tổng thống Habibie đảm nhiệm chức vụ tổng thống theo quy định trong hiến pháp.[6][91][92]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Suharto http://www.news.com.au/heraldsun/story/0,21985,223... http://www.smh.com.au/news/world/no-end-to-ambitio... http://www.theaustralian.com.au/news/farewell-to-j... http://epress.anu.edu.au/apps/bookworm/view/Soehar... http://www.abc.net.au/news/stories/2008/01/27/2147... http://www.unhchr.ch/Huridocda/Huridoca.nsf/0/8142... http://www.arabtimesonline.com/client/pagesdetails... http://www.ft.com/cms/s/0/0d243cf4-ccac-11dc-8df7-... http://books.google.com/books?id=O2IYAgAAQBAJ&pg=P... http://www.newstatesman.com/node/151780